KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ - PHẦN 2
Các đại đức xưa thuyết minh cho chúng ta bằng cách nói đơn giản nhất “như thị chi kinh”, tức là “tôi đích thân nghe Phật nói”. Đây là cách giảng nói đơn giản. Vậy “tôi” là ai? Đó là tôn giả A Nan. Năm xưa khi Thế Tôn còn tại thế, giảng kinh nói pháp tuyệt nhiên không có ghi chép. Khổng Lão Phu Tử năm xưa ở đời dạy học cũng vậy. Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử của ngài cảm thấy lão sư cả đời nói pháp, không thể để cho những gì đã nói ngay đời này bị chìm mất mà phải lưu truyền cho những đời sau. Các học trò của đức Phật bèn mở hội thảo luận làm thế nào đem tất cả kinh Phật lưu truyền lâu dài. Từ đó mới có cuộc kết tập này.
Trong lúc kết tập kinh tạng, hoàn toàn phải nhờ vào sức nhớ của người ngay lúc đó. Phật nói pháp bốn mươi chín năm, không một cá nhân nào có thể ghi nhớ kinh giảng trong suốt bốn mươi chín năm. Ở thế gian này, chúng ta cũng không thể tìm ra được một người. Chưa kể bốn mươi chín năm, những thứ đã giảng từ chín năm về trước, e rằng chúng ta còn quên sạch. Rất may trong hàng đệ tử Phật, năng lực ghi nhớ của tôn giả A Nan đặc biệt mạnh. Năng lực này của ngài A Nan rất thù thắng, sau khi nghe qua một lần, vĩnh viễn không hề quên. Cho nên khi kết tập kinh tạng, ngài A Nan được tuyển cử để giảng lại, đem kinh Thế Tôn cả đời đã giảng trùng tuyên giảng lại lần nữa. Lần giảng lại, thính chúng đều là những bậc đại A La Hán, đệ tử lớn của Phật. Những vị này đến nghe ngài A Nan thuyết và làm chứng cho A Nan.
Cuộc kết tập lần thứ nhất, có năm trăm A La Hán nghe A Nan giảng lại. Trong năm trăm người, nếu chỉ một người nêu ra ý kiến: “A Nan! Câu nói này dường như không phải Phật nói”, thì nội dung lời nói đó phải xóa bỏ lập tức. Lời giảng lại của A Nan phải được toàn thể năm trăm người thảy đều thông qua, như vậy mới có thể ghi chép, trở thành kinh điển truyền cho đời sau. Đó là lấy chữ tín đối với đời sau, người đời sau có được kinh điển, mới khởi lòng tôn kính. A Nan giảng lại như Phật đã nói, không hề khác nhau. Cho nên mở đầu kinh “Như thị ngã văn” còn có rất nhiều ý nghĩa. Chúng ta có thể tham khảo chú giải của đại đức xưa. Ngày nay chúng ta phải học tập, lấy bổn tông mà nói mật nghĩa của “Như thị”.
“Như” là chân như bổn tánh. Cả đời Thế Tôn thuyết pháp đều nói rõ thể - tướng. Tác dụng của “tự tánh” là “thật tướng các pháp” mà kinh Bát Nhã đã nói. Phật dùng chữ “như” để đại biểu “tánh như tướng, tướng như tánh, tánh tướng không hai”. Tánh từ trên lý, tướng từ trên sự, “lý như sự, sự như lý, lý sự không hai”. Phật nói rõ đại đạo lý cũng như chân tướng sự thật này, cho nên khi vừa mở kinh ra liền gặp hai chữ “như thị”, chính là chân thật tuyên nói tổng cương lĩnh. Nếu có người đặt câu hỏi “Kinh điển Phật giáo nhiều như vậy, rốt cuộc thì Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói những gì?” Chúng ta chỉ có thể nói “như thị”. Muốn giải thích một cách tỉ mỉ một bộ đại tạng kinh thì quan trọng phải giảng hai chữ “như thị”. Không có bất cứ câu chữ nào siêu việt hơn hai chữ “như thị”, cho nên ý nghĩa của hai chữ này sâu rộng vô tận. Theo bổn tông và cổ đức xưa: “như” là “thị tâm thị Phật”; “thị” là “thị tâm tác Phật”. Cách nói này hoàn toàn theo kinh Quán Vô Lượng Thọ.
Nguyên lý cơ bản của Tịnh tông chính là hai câu “thị tâm thị Phật, thị tâm tác Phật”. Hay nói cách khác, tâm chính là Phật, Phật chính là tâm. Ai mà chẳng có tâm? Cho nên Phật nói “tất cả chúng sanh vốn dĩ thành Phật”. Vì sao nói vốn dĩ thành Phật? Thị tâm thị Phật. Tông môn nói “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”, minh tâm là chân tâm, chân tâm là bổn tánh. Minh tâm chính là kiến tánh. Kiến tánh, tâm tánh chính là Phật, vì sao tâm và tánh đều là Phật? Và hà tất phải phân biệt hai chữ “tâm”, “tánh”? Hai chữ này đương nhiên có hai cách nói. Thông thường nói: “tánh là bản thể của tâm, tâm là tác dụng của tánh”. Hay nói cách khác, tâm chúng ta có thể có dụng, từ trên thể gọi là tánh, từ trên dụng thì gọi là tâm. Cho nên có lúc chỉ cần dùng một chữ “thể dụng” để nói tâm cũng được, nói tánh cũng được. Hai chữ này hợp lại, một gọi là “thể”, một gọi là “dụng”.
Chúng ta vốn dĩ đã là Phật, nhưng vì sao hiện tại không phải là Phật? Vì chúng ta làm cho tâm tánh mê mất, kinh nói mê mất không phải đã mất thật sự cho dù chúng ta có biến thành ngạ quỷ, súc sanh, đọa A Tỳ Địa ngục, tâm tánh không hề bị mất mà vẫn tồn tại, chỉ là chúng ta mê mất thôi. Bản thân có chân tâm, có bổn tánh mà không thể giác ngộ, đó là vì sau khi mê rồi, chúng ta không gọi là tâm cũng không gọi là tánh nữa, vậy gọi là gì? Phật pháp gọi là thức, “tình thức”. Tình thức chính là tâm tánh đã mê, khi giác ngộ mới gọi là tâm tánh.
Tâm tánh rốt cuộc là như thế nào? Làm thế nào mới có thể nhận biết nó? Phật nói, thể của tâm tánh là không tịch, nó không phải là một vật chất, thế nhưng nó đích thực đang tồn tại, tất cả hiện tượng vật chất đều từ nó biến hiện ra. Nó là cội gốc của vũ trụ nhân sinh. Như vậy vũ trụ nhân sinh từ tâm tánh biến hiện ra. Cho nên kinh Hoa Nghiêm, Phật nói “mười pháp giới y chánh trang nghiêm, do tâm hiện ra”, đó là do chân tâm chúng ta biến hiện. Sự biến hóa đó do thức, mê rồi mới có biến hóa nhiều như vậy. Trong mười pháp giới, từ trên “Phật, Bồ Tát, Thanh văn, Duyên giác”, xuống sáu đường, càng hướng xuống, mê càng sâu; càng hướng lên, mê càng ít, đều là mê mất đi tâm tánh. Nếu không mê chính là Phật, người đó không phải phàm phu. Mười pháp giới cũng gọi là phàm phu, kinh Phật gọi là ngoại phàm; sáu cõi là nội phàm, hoặc phàm phu.
Ngoài sáu cõi, pháp giới bốn thánh của mười pháp giới mà chúng ta gọi là ngoại phàm cũng vẫn là phàm phu, chưa kiến tánh, chưa hồi phục bổn tâm. Cho nên “thị tâm thị Phật” là sự thật ngàn vạn lần chính xác. Chúng ta tu hành Tịnh tông thành Phật, ngay trong một đời này thành Phật là căn cứ chính. Bởi vì chúng ta vốn dĩ là Phật, nhưng hiện tại đã mê, phải phá mê khai ngộ, hồi phục lại bản lai diện mục. Cho nên phương pháp tu học của Tịnh tông tuyệt diệu. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn, thì pháp môn này là cứu cánh nhất, viên mãn nhất, rất đặc thù, trực tiếp, ổn định, cũng rất mau chóng. Cụ thể phương pháp này là gì? Thị tâm tác Phật thế nào?
Niệm Phật chính là làm Phật, Bồ tát Đại Thế Chí đã dạy “nhớ Phật niệm Phật”. Trong miệng niệm Phật, trong tâm tưởng Phật, chính là đang làm Phật. Tưởng Phật như thế nào? Tưởng tướng hảo của Phật, tưởng trang nghiêm của Phật, tưởng công đức của Phật, tưởng Phật tu hành ngay lúc còn phàm phu, tưởng Phật thành tựu ngay trên quả địa, tưởng Phật độ hóa tất cả chúng sanh, vô lượng vô biên công đức thù thắng, chúng ta thường nghĩ đến những cái tốt này, tâm của chúng ta chính là làm Phật. Do đó nhất định phải thuộc kinh Vô Lượng Thọ.
Theo chúng tôi, khi vừa bắt đầu, chúng ta hãy đem kinh này tụng một năm ba ngàn biến. Nếu thời gian một năm không đủ, thì hai năm, ba năm. Tụng thuộc lòng ba ngàn biến, sau khi tụng thuộc, người đó liền có thể làm đến ức Phật, mới chân thật có thể làm Phật. Một ngày từ sớm đến tối, hai mươi bốn giờ đồng hồ không nên nghĩ thứ khác, chỉ hoàn toàn nghĩ đến y chánh trang nghiêm của thế giới Tây Phương Cực Lạc. Trong kinh điển đã nói, thường hay ghi nhớ trong tâm, thường nghĩ đến cảnh giới trong kinh điển, chính là chúng ta đang chân thật tu hành. Nếu đem “lý, sự, tánh, tướng, nhân, quả, y, chánh” của bộ kinh này, toàn bộ thực tiễn vào cuộc sống thường ngày, thực hành rốt ráo thì làm sao không thể thành Phật. Đó là “thị”, hoàn toàn tương ứng với “như”, cũng hoàn toàn tương ứng với “thị tâm tác Phật”.
Pháp môn này thù thắng biết bao, niệm Phật thành Phật là có căn cứ lý luận, không phải tùy duyên nói. Tôn giả A Nan đích thân nghe được Thích Ca Mâu Ni Phật. Hai chữ “như thị” này, chúng ta phải học tập như vậy, phải đem đạo lý, phương pháp, cảnh giới của toàn kinh đều thực tiễn ngay trong tâm tưởng. Đây chính là tổng cương lĩnh, tổng nguyên tắc của Tín Giải Hành Chứng trong thiên kinh vạn luận. Cho nên khi vừa mở kinh văn là gặp ngay hai chữ này.
“Nhất thời”
“Nhất thời” chỉ thời gian, không hề viết ngày tháng năm mà chỉ viết “nhất thời”. “Nhất thời” rất có đạo vị. Nếu có thể bước vào nhất thời, người khác nói quá khứ, hiện tại, vị lai, chúng ta thảy đều tường tận, người đời thường gọi “thần thông quảng đại”. Vì sao biết được quá khứ, vị lai? Vì họ sống ngay trong nhất thời. Chúng ta không biết quá khứ, vị lai vì chúng ta sống ở ba thời. Ba thời này là gì? Việc quá khứ thì quên mất, việc vị lai thì không biết tí gì, hiện tại cũng mơ mơ hồ hồ, không rõ ràng. Học Phật phải qua nhất thời, chúng ta phải hiểu thông suốt. Tuy chưa làm được, nhưng chân tướng của sự và lý không thể không biết. Nên biết “nhất” chính là như như bất động. Phật pháp đã nói “pháp môn bất nhị”, bất nhị chính là nhất, có nhị thì không nhất. Nhất là thật, nhị là giả. “Nhất chân pháp giới” trong kinh Hoa Nghiêm đó là thật, nếu nhị thì đã biến thành mười pháp giới mất rồi. “Nhất” là giác, “nhất” chính là như, nhị thì không như, nhị là đã mê, nhà Phật gọi “ba tâm hai ý”.
“Ba tâm hai ý” là đem một biến thành ba, một tâm biến thành ba tâm. Một tâm là chân tâm, chân như, biến thành ba tâm: tâm ý thức, A Lại Da thức là tâm, Mạt Na là ý. Các thức vốn dĩ là một tâm, hiện tại biến thành tám thức. Tám thức cũng gọi là ba tâm. Vì sao có hai ý? Tác dụng của hai ý rất lớn. Trong tám thức, tám cái tâm thì hai ý tác dụng rất lớn, hai ý ý căn chính là Mạt Na. Mạt Na là chấp trước kiên cố. Căn thứ sáu là ý thức, ý thức là phân biệt. Hiện tại chúng ta khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước chính do thứ này làm chủ đạo. Đó là mê. Vậy làm thế nào mới có thể hồi phục lại “nhất”?
Thiền tông minh tâm kiến tánh, đề cao “nhất”. Trong tông môn thường nói “thức đắc nhất, vạn sự tất”. Vào được cảnh giới “nhất” rồi, bất cứ việc gì cũng xong. Những việc trong sáu cõi không còn, việc trong mười pháp giới cũng không còn. Chỉ cần chứng được “nhất” liền đến được pháp giới nhất chân. Khi vào được pháp giới nhất chân, xin thưa rằng thời gian chính là “nhất thời”.
Thời gian hiện tại của chúng ta cũng là “nhất thời”, nhà khoa học gia thời cận đại Iten đã nói qua trong trước tác của ông rằng “quá khứ, hiện tại, vị lai đồng thời tồn tại”. Cách nói này của ông thật hơn người. Làm sao ông có thể biết quá khứ, hiện tại, vị lai đồng thời tồn tại?. Chúng ta không biết ông căn cứ từ đâu mà phát hiện ra, đương nhiên ông cũng chưa hề thấy được. Có thể ông từ nơi lý luận mà suy đoán. Lý luận cơ bản nhất của khoa học là căn cứ vào số học, cho nên gọi “số học là mẹ của khoa học”. Trên lý số cao thâm mà suy đoán có thể biết được quá khứ, hiện tại, vị lai đồng thời tồn tại. Do đó Đông phương, Tây phương, bất cứ quốc gia, khu vực nào cũng đều có con số dự ngôn suy đoán tương lai. Dự ngôn là suy lý, phần nhiều từ số học mà suy đoán, do đó chưa chắc chính xác.
Thế nhưng nếu chúng ta có thể nhập định, chân thật được định, thì ở trong cảnh giới thiền định đột phá thời không, cũng chính là vượt qua quá khứ, hiện tại, vị lai; quá khứ, hiện tại, vị lai thảy đều xem thấy. Iten nói: “Quá khứ, hiện tại, vị lai đồng thời tồn tại”, những việc vị lai chúng ta có thể xem thấy rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo, không chút sai lầm. Đó là dự ngôn chính xác. “Nhất thời” ý nghĩa rất sâu rộng. Nhất thời mới là thật, còn nói cho chúng ta nghe ngày tháng năm là giả. Đó là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của tất cả chúng sanh. Phật pháp nói lời thật cho chúng ta nghe. Kinh điển tuy là Phật y theo Nhị đế mà nói nhưng Phật hoàn toàn giảng lời chân thật.
Pháp Nhị đế chính là Chân đế, cảnh giới Phật đã thân chứng. Tùy theo tri kiến của chúng sanh mà giảng giải gọi là Tục đế. Trong một bộ kinh, hai loại ý nghĩa này thảy đều có. Kinh Tiểu thừa giảng nói rất nhiều Tục đế, ít giảng Chân đế. Trong kinh Đại thừa thì giảng nhiều Chân đế, ít giảng Tục đế. Cho nên chữ “Nhất thời” là lời chân thật, là “chân đế”, lấy cảnh giới của Phật mà nói. Chúng ta nhất định không được hoài nghi.
“Phật tại Vương Xá thành, Kỳ Xà Quật sơn trung, dữ đại tỳ kheo chúng, vạn nhị thiên nhân câu”
“Phật” là Thích Ca Mâu Ni Phật, người chủ giảng giảng kinh nói pháp lần đó. “Tại Vương Xá Thành, Kỳ Xà Quật sơn trung”, là nơi chốn giảng kinh năm xưa. Trên kinh điển đều có ghi chép, chứng minh sự thù thắng của pháp hội này: có thời gian, có địa điểm, có thính chúng “cùng một vạn hai ngàn vị Tỳ Kheo có mặt”. Pháp hội này vô cùng trang nghiêm.
Chúng ta đọc kinh, xem trong kinh điển, số lượng thính chúng trong pháp hội của Phật thông thường là “một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ Kheo”. Như vậy, hội này tăng gấp mười lần so với chúng hội thông thường, một vạn hai ngàn người. Lại thêm vào phía sau cho chúng ta biết có tỳ kheo, tỳ kheo ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ tại gia, tổng cộng thêm hai ngàn người. Pháp hội trang nghiêm thù thắng không thể nghĩ bàn.
Chúng ta xem trong hội Pháp Hoa của kinh Pháp Hoa, khi vừa mở đầu cũng cho biết có một vạn hai ngàn thính chúng. Việc này âm thầm nói lên “mật nghĩa hàm chứa trong kinh” rằng quyển kinh Vô Lượng Thọ này đồng với Pháp Hoa xác quyết nhất thừa giáo không thể nghĩ bàn. Chúng ta từ đó phải nhận biết giá trị bộ kinh điển này không phải kinh điển phổ thông mà là kinh điển thù thắng.
“Nhứt thiết đại thánh, thần thông dĩ đạt”
Kinh văn tiếp theo tán thán đức, tán thán đại chúng hội không phải người bình thường. Một vạn hai ngàn vị đại tỳ kheo trong chúng hội đều là đại thánh, không phải tiểu thánh. Tiểu thánh là tiểu thừa A La Hán. Bốn quả A La Hán là thánh nhân của tiểu thừa, trong khi đó thánh nhân của đại thừa địa vị cao hơn, thường được gọi là “thập hiền, thập thánh”. Lúc nào mới có thể xưng thánh? Quả vị của Bồ tát “Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng” gọi là tam hiền vị. Từ sơ địa trở lên mới gọi là thánh nhân. Thập thánh chính là thập địa Bồ tát. Từ sơ địa đến thập địa, quả vị này gọi là thánh nhân. Ngay trong hàng thánh nhân thì đại thánh không phải là thánh nhân thông thường. Đại thánh chỉ Bồ tát Pháp Vân địa cùng Bồ tát Đẳng giác. Hai vị thứ này có thể gọi là đại thánh. Do đây mà biết, một vạn hai trăm người đến dự hội không phải là người thường, chí ít cũng đều là Bồ tát Pháp Vân Địa, Bồ tát Đẳng giác thừa nguyện trở lại ủng hộ Thích Ca Mâu Ni Phật, nên gọi là “một Phật xuất thế, vạn Phật ủng hộ”.
Giống như diễn kịch, Thích Ca Mâu Ni Phật là nhân vật chính, các vị khác đến phối hợp phụ diễn. Dĩ nhiên những người diễn phụ này không phải là người thông thường, họ có những tư cách còn lão luyện hơn so với người diễn chính, thậm chí còn là thầy của người diễn chính. Họ đóng vai phụ cho ngài, phối hợp diễn xướng với ngài. Thế gian là một sân khấu lớn, Thích Ca Mâu Ni Phật đóng vai chủ diễn của kịch trường, có rất nhiều cổ Phật Bồ tát Đẳng giác tái lai hiệp trợ, diễn tốt xướng hay trên kịch trường. Các ngài chỉ có một mục đích giống nhau, giúp cho tất cả chúng sanh phá mê khai ngộ, ngay một đời viên mãn thành Phật. Đó là bản nguyện của chư Phật.
Đề kinh phía trước đã nói, hiện tại Phật cùng với những đại thánh xem thấy thế giới Ta Bà có một loại chúng sanh cơ duyên thành Phật đã chín muồi. Thế Tôn vui mừng không kể xiết, những vị đại thánh này cùng đến phối hợp cũng hoan hỉ không gì bằng, tiếp dẫn chúng sanh căn tánh chín muồi ngay trong một đời bình đẳng thành Phật. Cho nên những người này không phải là người thường. Xem kinh, đoạn này không hề liệt kê thính chúng là những tỳ kheo, tỳ kheo ni, thanh tín sĩ, thanh tín nữ, vì những người đó là phàm phu, không phải là đại thánh. Một vạn hai ngàn vị đại tỳ kheo đều là đại thánh. Thế nên Thế Tôn ở hội này tự nhiên vô cùng trang nghiêm thù thắng.
Theo thường lệ, mở đầu kinh văn luôn liệt kê các nhân vật đại biểu. Cổ đức gọi các vị đó là “Thượng thủ”. Quyển kinh này từ triều nhà Hán mãi đến triều nhà Tống, tổng cộng mười hai lần phiên dịch, nêu tên nhiều ít không giống nhau. Có quyển nêu hơn ba mươi vị, có quyển nêu ra mười, hai mươi vị. Vì sao phải nêu tên? Vì các vị đó là biểu pháp. Thế Tôn giảng kinh nói pháp bất cứ hội nào, họ cũng đều đến tham gia. Nhưng tại sao ở trong hội này, kết tập bộ kinh này nêu tên những vị này, kết tập bộ kinh khác lại nêu lên tên những vị khác? Chúng ta phải hiểu ý nghĩa của nó. Những người này, từ danh hiệu đức hạnh của họ đủ có thể đại biểu ý nghĩa của bộ kinh. Chúng ta chỉ cần xem danh hiệu thì liền biết được nội dung kinh, biết được trọng điểm của pháp hội nằm ở đâu. Cho nên việc nêu tên rất có ý nghĩa, không phải tùy tiện.
Cũng như hiện tại trong xã hội chúng ta mở hội nghị, chỉ cần nghe tên đại biểu đến tham dự hội nghị là những nhân vật nào, chúng ta liền biết được tính chất và nội dung của hội nghị. Phật pháp pháp hội này cũng vậy, nêu ra tên bậc thượng thủ cũng có ý tương tự. Lão cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập bộ kinh Vô Lượng Thọ, ông đã tỉnh lược bớt rất nhiều người trong số bậc thượng thủ, chỉ nêu ra những bậc quan trọng nhất đủ để biểu đạt nghĩa thú toàn kinh. Đó là thủ pháp cao minh của người hội tập, làm cho hậu học chúng ta tiết kiệm thời gian và giảm căng thẳng tinh thần.
Chúng ta nhận được tinh hoa của kinh Vô Lượng Thọ. Tuy nhiên từ mười hai loại bản dịch sau nhiều năm lưu truyền đến nay, đã thất truyền bảy loại. Hiện tại trong đại tạng kinh chỉ còn năm. Hội tập này của Hạ lão có thể nói là bổn tổng hợp của năm loại nguyên bản dịch. Chúng ta chỉ cần đọc quyển này cũng như đã đọc qua hết năm loại nguyên bản dịch kia, văn tự nghĩa lý hoàn chỉnh đầy đủ, không hề kém khuyết chút nào. Năm xưa khi Hạ lão còn ở đời được pháp sư Huệ Minh, pháp sư Từ Chu tán thán, lão cư sĩ Mai Quang Hi thì càng không cần phải nói. Trong lời tựa, bạt văn, chúng ta đều xem thấy, hội tập được quá viên mãn, thù thắng hơn rất nhiều so với ba loại hội giảo bổn ngày trước.
“Kỳ danh viết: Tôn giả Kiều Trần Như, tôn giả Xá Lợi Phất, tôn giả Đại Mục Kiền Liên, tôn giả Ca Diếp, tôn giả A Nan đẳng, nhi vi thượng thủ”
Đây đều là đại A La Hán, kinh chỉ nêu ra năm vị, thật là giản lược thấu đáo.
Vị thứ nhất, tôn giả Kiều Trần Như. Chúng ta xem nhiều kinh điển, thượng thủ đại biểu rất hiếm khi có ngài, mà thường là Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên xuất hiện quen thuộc hơn. Thực tế trong bất cứ pháp hội nào đều không thiếu vắng Kiều Trần Như nhưng chúng ta rất ít nghe đến tên của ngài, vì sao không nêu ngài lên?
Trong số đệ tử Phật, Kiều Trần Như đại biểu “chứng quả đệ nhất, khai ngộ đệ nhất”. Thích Ca Mâu Ni Phật năm xưa ở dưới cội bồ đề thị hiện thành đạo, sau khi thành Phật, đến vườn nai để độ năm vị Tỳ kheo. Đó là lần đầu tiên giảng kinh nói pháp, thính chúng chỉ có năm người. Trong năm vị Tỳ kheo này, khai ngộ và chứng quả thứ nhất là Kiều Trần Như. Kiều Trần Như có rất nhiều tích truyện, ở đây chúng tôi sẽ không giảng về tích truyện. Trọng tâm là chúng ta cần phải tin tưởng ngài đại biểu cho cái gì. Ngài đại biểu bộ kinh này là “kinh khai ngộ bậc nhất”, pháp môn này là “pháp môn chứng quả đệ nhất”. Đó mới là điểm then chốt.
Với bổn kinh, phần “Phi thị Tiểu Thừa – Đệ tứ thập tam” gần cuối kinh, đoạn đầu khuyên tín lưu thông, có câu “tâm vô hạ liệt, diệc bất cống cao, thành tựu thiện căn, tất giai tăng thượng. Đương tri thử nhân, phi thị Tiểu thừa, ư ngã pháp trung, đắc danh đệ nhất đệ tử”, chứng tỏ kinh văn trước sau tương ứng. Kiều Trần Như là khai ngộ đệ nhất, chứng quả đệ nhất, nên xếp ngài ở thứ nhất, chính là nói rõ bộ kinh này là pháp môn khiến cho tất cả chúng sanh bình đẳng thành Phật đệ nhất. Tất cả kinh Thích Ca Mâu Ni Phật nói trong suốt bốn mươi chín năm, đây chẳng phải đã nói rõ ràng Vô Lượng Thọ là đệ nhất kinh, thiên kinh vạn luận. Ngày nay chúng ta chọn được đệ nhất kinh trong tất cả kinh, nếu không phải là đại thiện căn, đại phước đức, đại nhân duyên thì làm sao có thể gặp được.
Kiều Trần Như đại biểu đệ nhất, nên xếp ngài ở thứ nhất. Phía sau cũng đều là thứ nhất, mỗi câu mỗi chữ trong kinh đều là đệ nhất, không có đệ nhị. Xá Lợi Phất đại biểu cho trí tuệ đệ nhất, Mục Kiền Liên đại biểu thần thông đệ nhất. Kiều Trần Như được xếp ở phía trước, vậy ý nghĩa biểu thị của ngài được nâng cao hơn.
Mục Kiền Liên đại biểu thần thông đệ nhất, thần thông chính là năng lực mà ngày nay chúng ta thường gọi. Thông là ý nghĩa thông đạt, thông đạt tất cả, không hề chướng ngại. Thần là thần kỳ, siêu việt thường thức, tưởng tượng của chúng ta. Họ có năng lực thù thắng, đệ nhất, cho nên trong tất cả kinh đều có hai vị tôn giả Mục Kiền Liên và Xá Lợi Phất, ý nói: tất cả các kinh Phật nói đều là trí tuệ đức năng, từ trong trí tuệ chân thật, đức năng chân thật mà lưu xuất ra, trí tuệ đệ nhất; thần thông năng lực cũng đệ nhất. Tuy nhiên tuyệt đối các kinh khác không thể so sánh với kinh Vô Lượng Thọ, vì sao? Không phải kinh nào cũng đều có thể giúp cho tất cả chúng sanh bình đẳng thành Phật. Chỉ có bộ kinh này, một pháp môn này mới có thể giúp cho tất cả chúng sanh bình đẳng thành Phật.
Phải ghi nhớ, chúng ta hãy xây dựng tín tâm, học đoạn kinh văn này chính là kiến lập tín tâm kiên định không gì bằng, tin tưởng chính mình “thị tâm thị Phật”, tin tưởng chính mình “thị tâm tác Phật”, nhất quyết sẽ thành Phật.
Tôn giả Ca Diếp đại biểu Thiền tông, sơ tổ của Thiền tông. Tôn giả A Nan đại biểu giáo hạ. Tông môn cùng giáo hạ họp lại là tổng thể Phật pháp, không hề sót lọt thứ nào. Ngoài Thiền tông ra thảy đều gọi là giáo hạ. Hai vị này đại biểu ý nghĩa rằng Tông môn và Giáo hạ cuối cùng sẽ quy về Tịnh độ, thế chẳng phải Tịnh độ thù thắng dường nào. Tuy nhiên Tông môn có thật quy về Tịnh độ hay không? Chân thật quy về.
Ví dụ rõ ràng nhất, Mã Tổ, Bá Trượng là hai vị đại sư đã xây dựng tòng lâm, lập thanh qui, đề xướng cùng tu, “Thiền môn nhật tụng”. Thanh qui mà đại sư Bá Trượng lập ra là bổn khóa tụng của Thiền tông. Khóa tối đều niệm A Di Đà Phật, buổi tụng kinh tối thì tụng kinh Di Đà, há chẳng phải quy Tịnh Độ đó sao? Không hề xem nhẹ Tịnh độ, rõ ràng là ngàn kinh vạn luận và mọi tông phái đều quy về Vô Lượng Thọ, quy về bộ kinh này, quy về thế giới Tây Phương Cực Lạc. Hiểu rõ, chúng ta cũng nên lựa chọn pháp môn Tịnh độ, chuyên tu chuyên hoằng, nhất quyết không bị các pháp môn khác làm lay động ý nguyện.
“Hựu hữu Phổ Hiền Bồ tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Di Lặc Bồ tát”
Trong pháp hội còn có chúng Bồ tát, ở trong chúng Bồ tát đề cử cho chúng ta ba vị. Thứ nhất là Bồ tát Phổ Hiền, Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, Bồ tát Di Lặc và tất cả Bồ tát trong hiền kiếp đều đến hội họp. Ý nghĩa này rất tuyệt diệu.
Bồ tát Phổ Hiền đại biểu điều gì? Đại biểu Tịnh Mật không hai. Mười tông phái của Phật pháp trong đó có Mật tông. Vào thời cận đại, Mật tông hoằng truyền rất rộng. Tổ sư của Mật tông là Bồ tát Phổ Hiền. Vị truyền thừa của Mật tông là Bồ tát Long Thọ. Sau khi Phật diệt độ sáu trăm năm, Bồ tát Long Thọ xuất hiện trên thế gian. Ngài là Bồ tát sơ địa ở Nam Thiên mở Tháp Sắt. Sau khi tháp sắt mở thì Kim Cang Tát Đỏa gọi là Kim Cang Thủ Bồ tát truyền cho ngài mật pháp này. Kim Cang Thủ Bồ tát là hóa thân của Bồ tát Phổ Hiền. Cho nên Bồ tát Phổ Hiền ở Mật tông xưng là Kim Cang Tát Đỏa. Ngài đại biểu cho Mật tông, đến cuối cùng cũng quy về Tịnh độ. Ý nghĩa này hiển thị đặc biệt rõ ràng trong phẩm thứ hai “Đức Tôn Phổ Hiền”. Trong kinh Hoa Nghiêm, “thập đại nguyện vương, đạo quy Cực Lạc”, như vậy Mật tông đâu có lý nào không quy về Tịnh độ.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi đại biểu Thiền tông. Thiền tông do tổ sư Đạt ma truyền xuống, không phải là thiền định trong Lục độ, mà là Bát Nhã Ba La Mật trong Lục độ, gọi là “Lục Tổ Đàn Kinh”. Lục Tổ khi mở lời, luôn dạy mọi người niệm Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa, cho nên chúng ta phải hiểu Thiền tông là tu Bát Nhã Ba La Mật Đa. Bồ tát Văn Thù Sư Lợi đại biểu, đây là bổn tôn trong tông môn. Phổ Hiền là bổn tôn trong Mật tông, tất cả đều hướng về Tịnh độ.
Chúng ta tu Tịnh độ, tâm đã định thì nhìn thấy Thiền, nhìn thấy Mật rất hay. “Mật trong Mât, Thiền trong thiền”, tín tâm, nguyện tâm kiên định, không hề bị làm lay động. Chư vị Bồ tát được liệt kê ở đây đều mang nghĩa thú sâu rộng, chân thật giúp đỡ chúng ta xây dựng tín tâm, nguyện tâm không gì bằng.
Bồ tát Di Lặc đại biểu truyền thừa tương lai. Thích Ca Mâu Ni Phật là một thời đại lớn. Trong thời đại lớn này, một vạn hai ngàn năm, pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật có chánh pháp, tượng pháp, mạt pháp. Như vậy, sau một vạn hai ngàn năm, các chư Phật khác đến hoằng dương pháp môn gì, có giống như Thích Ca Mâu Ni Phật không? Không gì khác, Bồ tát Di Lặc chính là kế thừa Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật là vị Phật thứ tư trong Hiền kiếp, Di Lặc là vị thứ năm, tiếp nối tương lai, cũng tiếp nối pháp môn này, vì đây là pháp môn đệ nhất. Mười phương ba đời tất cả chư Phật Như Lai độ chúng sanh thành Phật đạo, pháp môn đệ nhất là kinh Vô Lượng Thọ. Đối tượng kinh Vô Lượng Thọ tiếp dẫn chính là chúng sanh căn tánh chín muồi ở thế gian. Như thế nào mới gọi là chín muồi? Ngay trong một đời quyết tâm thành Phật.
Cho nên chúng ta tiếp xúc được pháp môn này, nếu không thể vãng sanh, không phải vì kinh kém khuyết mà vì chính chúng ta chưa y giáo phụng hành. Còn nếu y giáo phụng hành, nhất định đời này làm Phật, không hề khác biệt với Phật A Di Đà. Đó là sự thật, tuyệt nhiên không giả. Tất cả chư Phật Như Lai gặp được chúng sanh căn tánh chín muồi đều phải nói pháp môn này, đều khuyên bảo niệm Phật cầu sanh Tịnh độ. Do đó, pháp môn và pháp hội này thù thắng, xác thực không tiền tuyệt hậu.
“Cập Hiền kiếp trung, nhất thiết Bồ Tát, giai lai tập hội”
Tất cả Bồ tát chuyên chỉ Hiền Kiếp Thiên Phật, thời đại đó càng to lớn hơn, ngay trong một đại kiếp. Nhà Phật gọi một đại kiếp, ý nói đơn vị thời gian rất lớn. Trong đại kiếp này có một ngàn vị Phật xuất hiện ở thế giới Ta Bà. Cho nên thế giới Ta Bà chúng ta hiện tại ở trong đại thiên thế giới. Quả địa cầu này chỉ là một tinh cầu nhỏ của đại thiên thế giới. Trước kia đa phần người ta cho rằng: đại thiên thế giới mà nhà Phật nói chẳng qua là hệ ngân hà mà các nhà thiên văn học hiện tại phát hiện. Thế nhưng lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ có cách nhìn không như vậy. Phía sau chú giải kinh Vô Lượng Thọ có một đoạn văn chương của ông. Lần sau cùng ông gởi cho tôi, khi đó tôi ở Đài Loan. Ông gửi từ Bắc Kinh đến nói rằng ông hy vọng chúng tôi đem thiên văn chương này bổ sung để vào phía sau phần chú giải, bởi vì lúc giảng kinh ông đã để sót đoạn này. Ông là nhà khoa học đồng thời là giáo thọ khoa học, dạy vô tuyến điện ở trường đại học Thiên Tân.
Hiện tại chúng ta gọi là hệ ngân hà, nhưng theo cách nhìn của ông, trên thực tế chỉ là một đơn vị thế giới mà trong Phật pháp thường gọi. Kinh Phật nói đơn vị thế giới lấy núi Tu Di làm trung tâm, thái dương xoay vòng theo núi Tu Di. Rốt cuộc núi Tu Di là gì? Từ xưa đến giờ chưa có người nào có thể giải thích rõ ràng. Hoàng lão cư sĩ nói: “Núi Tu Di có thể là lỗ đen mà thiên văn đã phát hiện”. Lỗ đen đó ngày nay chúng ta gọi là trung tâm của vũ trụ, trung tâm của hệ ngân hà. Thái dương đích thực đang xoay quanh điểm này.
Giả như lời nói của ông có thể chứng thực, vậy một đại thiên thế giới có bao nhiêu hệ ngân hà? Mười vạn ức hệ ngân hà. Một đại thiên thế giới là khu vực giáo hóa của một vị Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật hoàn toàn không diệt độ. Ngài ở thế giới này thị hiện cho chúng ta thấy ngài đã diệt độ, nhưng có thể ngài lại thị hiện ở một tinh cầu khác. Phật xem nơi nào duyên đã chín muồi thì liền hiện thân ở nơi đó. Phẩm Phổ Môn nói “Thiên xứ sở cầu thiên xứ ứng”, kinh Lăng Nghiêm cũng nói tùy loại hóa thân, “tùy chúng sanh tâm ứng sở tri lượng”. Phật không có thân tướng nhất định, nơi nào có duyên thì hiện thân đến nơi đó, nơi nào không còn duyên nữa, thân cũng sẽ không còn. Cho nên không có sanh tử, tùy loại hóa thân, đó là sự thật.
Thế nên Hiền kiếp, trong thời đại lớn này, có một ngàn vị Phật ở thế giới Ta Bà, chính là một đại thiên thế giới. Chúng ta lấy lời của Hoàng lão cư sĩ thì mười vạn ức hệ ngân hà, phạm vi lớn đến vậy, thị hiện một ngàn vị Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật là vị thứ tư, Phật Di Lặc là vị thứ năm, sau đó còn 995 vị Phật. Hiện tại trong Hiền kiếp, địa vị các ngài là Bồ tát, nhưng tương lai liên tục thảy đều thay nhau thành Phật. Ý này rõ ràng cho chúng ta biết, vạn Phật không vị Phật nào không nói kinh này, không vị Phật nào không tuyên dương pháp môn này, không vị Phật nào không khuyên tất cả chúng sanh niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
Chúng ta phải chân thật nắm được, hiện tại nhất định sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc. Tương lai ở thế giới Tây Phương Cực Lạc, chúng ta sẽ trở thành nguyên lão, tư cách tiền bối. Kinh nói rõ “A Di Đà Phật thành Phật đến nay mới có mười kiếp”, mười kiếp ở trong thời không rất ngắn ngủi. Chúng ta sớm đến thế giới Cực Lạc, sau này vạn Phật ra đời đều là hậu bối của chúng ta. Cho nên hiện tại nếu vãng sanh, tương lai đều là huynh trưởng của họ. Do đó hãy nhanh chân hơn, không nên tiếp tục luân hồi, vừa luân hồi vừa đọa lạc, trong khi người sau thành Phật, thành đại Bồ Tát, thì chúng ta lại trở nên lạc hậu quá xa. Đó là việc không ai muốn. Muốn vậy, thì phải chăm chỉ nỗ lực học tập tinh tấn.
Tóm lại, quả thực mười phương tất cả chư Phật Như Lai, không chỉ là Hiền kiếp thiên Phật, không vị nào không lấy kinh này, lấy pháp môn niệm Phật làm đệ nhất. Đó là nội dung nên học tập trong phẩm thứ nhất.
Trong lúc kết tập kinh tạng, hoàn toàn phải nhờ vào sức nhớ của người ngay lúc đó. Phật nói pháp bốn mươi chín năm, không một cá nhân nào có thể ghi nhớ kinh giảng trong suốt bốn mươi chín năm. Ở thế gian này, chúng ta cũng không thể tìm ra được một người. Chưa kể bốn mươi chín năm, những thứ đã giảng từ chín năm về trước, e rằng chúng ta còn quên sạch. Rất may trong hàng đệ tử Phật, năng lực ghi nhớ của tôn giả A Nan đặc biệt mạnh. Năng lực này của ngài A Nan rất thù thắng, sau khi nghe qua một lần, vĩnh viễn không hề quên. Cho nên khi kết tập kinh tạng, ngài A Nan được tuyển cử để giảng lại, đem kinh Thế Tôn cả đời đã giảng trùng tuyên giảng lại lần nữa. Lần giảng lại, thính chúng đều là những bậc đại A La Hán, đệ tử lớn của Phật. Những vị này đến nghe ngài A Nan thuyết và làm chứng cho A Nan.
Cuộc kết tập lần thứ nhất, có năm trăm A La Hán nghe A Nan giảng lại. Trong năm trăm người, nếu chỉ một người nêu ra ý kiến: “A Nan! Câu nói này dường như không phải Phật nói”, thì nội dung lời nói đó phải xóa bỏ lập tức. Lời giảng lại của A Nan phải được toàn thể năm trăm người thảy đều thông qua, như vậy mới có thể ghi chép, trở thành kinh điển truyền cho đời sau. Đó là lấy chữ tín đối với đời sau, người đời sau có được kinh điển, mới khởi lòng tôn kính. A Nan giảng lại như Phật đã nói, không hề khác nhau. Cho nên mở đầu kinh “Như thị ngã văn” còn có rất nhiều ý nghĩa. Chúng ta có thể tham khảo chú giải của đại đức xưa. Ngày nay chúng ta phải học tập, lấy bổn tông mà nói mật nghĩa của “Như thị”.
“Như” là chân như bổn tánh. Cả đời Thế Tôn thuyết pháp đều nói rõ thể - tướng. Tác dụng của “tự tánh” là “thật tướng các pháp” mà kinh Bát Nhã đã nói. Phật dùng chữ “như” để đại biểu “tánh như tướng, tướng như tánh, tánh tướng không hai”. Tánh từ trên lý, tướng từ trên sự, “lý như sự, sự như lý, lý sự không hai”. Phật nói rõ đại đạo lý cũng như chân tướng sự thật này, cho nên khi vừa mở kinh ra liền gặp hai chữ “như thị”, chính là chân thật tuyên nói tổng cương lĩnh. Nếu có người đặt câu hỏi “Kinh điển Phật giáo nhiều như vậy, rốt cuộc thì Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói những gì?” Chúng ta chỉ có thể nói “như thị”. Muốn giải thích một cách tỉ mỉ một bộ đại tạng kinh thì quan trọng phải giảng hai chữ “như thị”. Không có bất cứ câu chữ nào siêu việt hơn hai chữ “như thị”, cho nên ý nghĩa của hai chữ này sâu rộng vô tận. Theo bổn tông và cổ đức xưa: “như” là “thị tâm thị Phật”; “thị” là “thị tâm tác Phật”. Cách nói này hoàn toàn theo kinh Quán Vô Lượng Thọ.
Nguyên lý cơ bản của Tịnh tông chính là hai câu “thị tâm thị Phật, thị tâm tác Phật”. Hay nói cách khác, tâm chính là Phật, Phật chính là tâm. Ai mà chẳng có tâm? Cho nên Phật nói “tất cả chúng sanh vốn dĩ thành Phật”. Vì sao nói vốn dĩ thành Phật? Thị tâm thị Phật. Tông môn nói “minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”, minh tâm là chân tâm, chân tâm là bổn tánh. Minh tâm chính là kiến tánh. Kiến tánh, tâm tánh chính là Phật, vì sao tâm và tánh đều là Phật? Và hà tất phải phân biệt hai chữ “tâm”, “tánh”? Hai chữ này đương nhiên có hai cách nói. Thông thường nói: “tánh là bản thể của tâm, tâm là tác dụng của tánh”. Hay nói cách khác, tâm chúng ta có thể có dụng, từ trên thể gọi là tánh, từ trên dụng thì gọi là tâm. Cho nên có lúc chỉ cần dùng một chữ “thể dụng” để nói tâm cũng được, nói tánh cũng được. Hai chữ này hợp lại, một gọi là “thể”, một gọi là “dụng”.
Chúng ta vốn dĩ đã là Phật, nhưng vì sao hiện tại không phải là Phật? Vì chúng ta làm cho tâm tánh mê mất, kinh nói mê mất không phải đã mất thật sự cho dù chúng ta có biến thành ngạ quỷ, súc sanh, đọa A Tỳ Địa ngục, tâm tánh không hề bị mất mà vẫn tồn tại, chỉ là chúng ta mê mất thôi. Bản thân có chân tâm, có bổn tánh mà không thể giác ngộ, đó là vì sau khi mê rồi, chúng ta không gọi là tâm cũng không gọi là tánh nữa, vậy gọi là gì? Phật pháp gọi là thức, “tình thức”. Tình thức chính là tâm tánh đã mê, khi giác ngộ mới gọi là tâm tánh.
Tâm tánh rốt cuộc là như thế nào? Làm thế nào mới có thể nhận biết nó? Phật nói, thể của tâm tánh là không tịch, nó không phải là một vật chất, thế nhưng nó đích thực đang tồn tại, tất cả hiện tượng vật chất đều từ nó biến hiện ra. Nó là cội gốc của vũ trụ nhân sinh. Như vậy vũ trụ nhân sinh từ tâm tánh biến hiện ra. Cho nên kinh Hoa Nghiêm, Phật nói “mười pháp giới y chánh trang nghiêm, do tâm hiện ra”, đó là do chân tâm chúng ta biến hiện. Sự biến hóa đó do thức, mê rồi mới có biến hóa nhiều như vậy. Trong mười pháp giới, từ trên “Phật, Bồ Tát, Thanh văn, Duyên giác”, xuống sáu đường, càng hướng xuống, mê càng sâu; càng hướng lên, mê càng ít, đều là mê mất đi tâm tánh. Nếu không mê chính là Phật, người đó không phải phàm phu. Mười pháp giới cũng gọi là phàm phu, kinh Phật gọi là ngoại phàm; sáu cõi là nội phàm, hoặc phàm phu.
Ngoài sáu cõi, pháp giới bốn thánh của mười pháp giới mà chúng ta gọi là ngoại phàm cũng vẫn là phàm phu, chưa kiến tánh, chưa hồi phục bổn tâm. Cho nên “thị tâm thị Phật” là sự thật ngàn vạn lần chính xác. Chúng ta tu hành Tịnh tông thành Phật, ngay trong một đời này thành Phật là căn cứ chính. Bởi vì chúng ta vốn dĩ là Phật, nhưng hiện tại đã mê, phải phá mê khai ngộ, hồi phục lại bản lai diện mục. Cho nên phương pháp tu học của Tịnh tông tuyệt diệu. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn, thì pháp môn này là cứu cánh nhất, viên mãn nhất, rất đặc thù, trực tiếp, ổn định, cũng rất mau chóng. Cụ thể phương pháp này là gì? Thị tâm tác Phật thế nào?
Niệm Phật chính là làm Phật, Bồ tát Đại Thế Chí đã dạy “nhớ Phật niệm Phật”. Trong miệng niệm Phật, trong tâm tưởng Phật, chính là đang làm Phật. Tưởng Phật như thế nào? Tưởng tướng hảo của Phật, tưởng trang nghiêm của Phật, tưởng công đức của Phật, tưởng Phật tu hành ngay lúc còn phàm phu, tưởng Phật thành tựu ngay trên quả địa, tưởng Phật độ hóa tất cả chúng sanh, vô lượng vô biên công đức thù thắng, chúng ta thường nghĩ đến những cái tốt này, tâm của chúng ta chính là làm Phật. Do đó nhất định phải thuộc kinh Vô Lượng Thọ.
Theo chúng tôi, khi vừa bắt đầu, chúng ta hãy đem kinh này tụng một năm ba ngàn biến. Nếu thời gian một năm không đủ, thì hai năm, ba năm. Tụng thuộc lòng ba ngàn biến, sau khi tụng thuộc, người đó liền có thể làm đến ức Phật, mới chân thật có thể làm Phật. Một ngày từ sớm đến tối, hai mươi bốn giờ đồng hồ không nên nghĩ thứ khác, chỉ hoàn toàn nghĩ đến y chánh trang nghiêm của thế giới Tây Phương Cực Lạc. Trong kinh điển đã nói, thường hay ghi nhớ trong tâm, thường nghĩ đến cảnh giới trong kinh điển, chính là chúng ta đang chân thật tu hành. Nếu đem “lý, sự, tánh, tướng, nhân, quả, y, chánh” của bộ kinh này, toàn bộ thực tiễn vào cuộc sống thường ngày, thực hành rốt ráo thì làm sao không thể thành Phật. Đó là “thị”, hoàn toàn tương ứng với “như”, cũng hoàn toàn tương ứng với “thị tâm tác Phật”.
Pháp môn này thù thắng biết bao, niệm Phật thành Phật là có căn cứ lý luận, không phải tùy duyên nói. Tôn giả A Nan đích thân nghe được Thích Ca Mâu Ni Phật. Hai chữ “như thị” này, chúng ta phải học tập như vậy, phải đem đạo lý, phương pháp, cảnh giới của toàn kinh đều thực tiễn ngay trong tâm tưởng. Đây chính là tổng cương lĩnh, tổng nguyên tắc của Tín Giải Hành Chứng trong thiên kinh vạn luận. Cho nên khi vừa mở kinh văn là gặp ngay hai chữ này.
“Nhất thời”
“Nhất thời” chỉ thời gian, không hề viết ngày tháng năm mà chỉ viết “nhất thời”. “Nhất thời” rất có đạo vị. Nếu có thể bước vào nhất thời, người khác nói quá khứ, hiện tại, vị lai, chúng ta thảy đều tường tận, người đời thường gọi “thần thông quảng đại”. Vì sao biết được quá khứ, vị lai? Vì họ sống ngay trong nhất thời. Chúng ta không biết quá khứ, vị lai vì chúng ta sống ở ba thời. Ba thời này là gì? Việc quá khứ thì quên mất, việc vị lai thì không biết tí gì, hiện tại cũng mơ mơ hồ hồ, không rõ ràng. Học Phật phải qua nhất thời, chúng ta phải hiểu thông suốt. Tuy chưa làm được, nhưng chân tướng của sự và lý không thể không biết. Nên biết “nhất” chính là như như bất động. Phật pháp đã nói “pháp môn bất nhị”, bất nhị chính là nhất, có nhị thì không nhất. Nhất là thật, nhị là giả. “Nhất chân pháp giới” trong kinh Hoa Nghiêm đó là thật, nếu nhị thì đã biến thành mười pháp giới mất rồi. “Nhất” là giác, “nhất” chính là như, nhị thì không như, nhị là đã mê, nhà Phật gọi “ba tâm hai ý”.
“Ba tâm hai ý” là đem một biến thành ba, một tâm biến thành ba tâm. Một tâm là chân tâm, chân như, biến thành ba tâm: tâm ý thức, A Lại Da thức là tâm, Mạt Na là ý. Các thức vốn dĩ là một tâm, hiện tại biến thành tám thức. Tám thức cũng gọi là ba tâm. Vì sao có hai ý? Tác dụng của hai ý rất lớn. Trong tám thức, tám cái tâm thì hai ý tác dụng rất lớn, hai ý ý căn chính là Mạt Na. Mạt Na là chấp trước kiên cố. Căn thứ sáu là ý thức, ý thức là phân biệt. Hiện tại chúng ta khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước chính do thứ này làm chủ đạo. Đó là mê. Vậy làm thế nào mới có thể hồi phục lại “nhất”?
Thiền tông minh tâm kiến tánh, đề cao “nhất”. Trong tông môn thường nói “thức đắc nhất, vạn sự tất”. Vào được cảnh giới “nhất” rồi, bất cứ việc gì cũng xong. Những việc trong sáu cõi không còn, việc trong mười pháp giới cũng không còn. Chỉ cần chứng được “nhất” liền đến được pháp giới nhất chân. Khi vào được pháp giới nhất chân, xin thưa rằng thời gian chính là “nhất thời”.
Thời gian hiện tại của chúng ta cũng là “nhất thời”, nhà khoa học gia thời cận đại Iten đã nói qua trong trước tác của ông rằng “quá khứ, hiện tại, vị lai đồng thời tồn tại”. Cách nói này của ông thật hơn người. Làm sao ông có thể biết quá khứ, hiện tại, vị lai đồng thời tồn tại?. Chúng ta không biết ông căn cứ từ đâu mà phát hiện ra, đương nhiên ông cũng chưa hề thấy được. Có thể ông từ nơi lý luận mà suy đoán. Lý luận cơ bản nhất của khoa học là căn cứ vào số học, cho nên gọi “số học là mẹ của khoa học”. Trên lý số cao thâm mà suy đoán có thể biết được quá khứ, hiện tại, vị lai đồng thời tồn tại. Do đó Đông phương, Tây phương, bất cứ quốc gia, khu vực nào cũng đều có con số dự ngôn suy đoán tương lai. Dự ngôn là suy lý, phần nhiều từ số học mà suy đoán, do đó chưa chắc chính xác.
Thế nhưng nếu chúng ta có thể nhập định, chân thật được định, thì ở trong cảnh giới thiền định đột phá thời không, cũng chính là vượt qua quá khứ, hiện tại, vị lai; quá khứ, hiện tại, vị lai thảy đều xem thấy. Iten nói: “Quá khứ, hiện tại, vị lai đồng thời tồn tại”, những việc vị lai chúng ta có thể xem thấy rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo, không chút sai lầm. Đó là dự ngôn chính xác. “Nhất thời” ý nghĩa rất sâu rộng. Nhất thời mới là thật, còn nói cho chúng ta nghe ngày tháng năm là giả. Đó là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của tất cả chúng sanh. Phật pháp nói lời thật cho chúng ta nghe. Kinh điển tuy là Phật y theo Nhị đế mà nói nhưng Phật hoàn toàn giảng lời chân thật.
Pháp Nhị đế chính là Chân đế, cảnh giới Phật đã thân chứng. Tùy theo tri kiến của chúng sanh mà giảng giải gọi là Tục đế. Trong một bộ kinh, hai loại ý nghĩa này thảy đều có. Kinh Tiểu thừa giảng nói rất nhiều Tục đế, ít giảng Chân đế. Trong kinh Đại thừa thì giảng nhiều Chân đế, ít giảng Tục đế. Cho nên chữ “Nhất thời” là lời chân thật, là “chân đế”, lấy cảnh giới của Phật mà nói. Chúng ta nhất định không được hoài nghi.
“Phật tại Vương Xá thành, Kỳ Xà Quật sơn trung, dữ đại tỳ kheo chúng, vạn nhị thiên nhân câu”
“Phật” là Thích Ca Mâu Ni Phật, người chủ giảng giảng kinh nói pháp lần đó. “Tại Vương Xá Thành, Kỳ Xà Quật sơn trung”, là nơi chốn giảng kinh năm xưa. Trên kinh điển đều có ghi chép, chứng minh sự thù thắng của pháp hội này: có thời gian, có địa điểm, có thính chúng “cùng một vạn hai ngàn vị Tỳ Kheo có mặt”. Pháp hội này vô cùng trang nghiêm.
Chúng ta đọc kinh, xem trong kinh điển, số lượng thính chúng trong pháp hội của Phật thông thường là “một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ Kheo”. Như vậy, hội này tăng gấp mười lần so với chúng hội thông thường, một vạn hai ngàn người. Lại thêm vào phía sau cho chúng ta biết có tỳ kheo, tỳ kheo ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ tại gia, tổng cộng thêm hai ngàn người. Pháp hội trang nghiêm thù thắng không thể nghĩ bàn.
Chúng ta xem trong hội Pháp Hoa của kinh Pháp Hoa, khi vừa mở đầu cũng cho biết có một vạn hai ngàn thính chúng. Việc này âm thầm nói lên “mật nghĩa hàm chứa trong kinh” rằng quyển kinh Vô Lượng Thọ này đồng với Pháp Hoa xác quyết nhất thừa giáo không thể nghĩ bàn. Chúng ta từ đó phải nhận biết giá trị bộ kinh điển này không phải kinh điển phổ thông mà là kinh điển thù thắng.
“Nhứt thiết đại thánh, thần thông dĩ đạt”
Kinh văn tiếp theo tán thán đức, tán thán đại chúng hội không phải người bình thường. Một vạn hai ngàn vị đại tỳ kheo trong chúng hội đều là đại thánh, không phải tiểu thánh. Tiểu thánh là tiểu thừa A La Hán. Bốn quả A La Hán là thánh nhân của tiểu thừa, trong khi đó thánh nhân của đại thừa địa vị cao hơn, thường được gọi là “thập hiền, thập thánh”. Lúc nào mới có thể xưng thánh? Quả vị của Bồ tát “Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng” gọi là tam hiền vị. Từ sơ địa trở lên mới gọi là thánh nhân. Thập thánh chính là thập địa Bồ tát. Từ sơ địa đến thập địa, quả vị này gọi là thánh nhân. Ngay trong hàng thánh nhân thì đại thánh không phải là thánh nhân thông thường. Đại thánh chỉ Bồ tát Pháp Vân địa cùng Bồ tát Đẳng giác. Hai vị thứ này có thể gọi là đại thánh. Do đây mà biết, một vạn hai trăm người đến dự hội không phải là người thường, chí ít cũng đều là Bồ tát Pháp Vân Địa, Bồ tát Đẳng giác thừa nguyện trở lại ủng hộ Thích Ca Mâu Ni Phật, nên gọi là “một Phật xuất thế, vạn Phật ủng hộ”.
Giống như diễn kịch, Thích Ca Mâu Ni Phật là nhân vật chính, các vị khác đến phối hợp phụ diễn. Dĩ nhiên những người diễn phụ này không phải là người thông thường, họ có những tư cách còn lão luyện hơn so với người diễn chính, thậm chí còn là thầy của người diễn chính. Họ đóng vai phụ cho ngài, phối hợp diễn xướng với ngài. Thế gian là một sân khấu lớn, Thích Ca Mâu Ni Phật đóng vai chủ diễn của kịch trường, có rất nhiều cổ Phật Bồ tát Đẳng giác tái lai hiệp trợ, diễn tốt xướng hay trên kịch trường. Các ngài chỉ có một mục đích giống nhau, giúp cho tất cả chúng sanh phá mê khai ngộ, ngay một đời viên mãn thành Phật. Đó là bản nguyện của chư Phật.
Đề kinh phía trước đã nói, hiện tại Phật cùng với những đại thánh xem thấy thế giới Ta Bà có một loại chúng sanh cơ duyên thành Phật đã chín muồi. Thế Tôn vui mừng không kể xiết, những vị đại thánh này cùng đến phối hợp cũng hoan hỉ không gì bằng, tiếp dẫn chúng sanh căn tánh chín muồi ngay trong một đời bình đẳng thành Phật. Cho nên những người này không phải là người thường. Xem kinh, đoạn này không hề liệt kê thính chúng là những tỳ kheo, tỳ kheo ni, thanh tín sĩ, thanh tín nữ, vì những người đó là phàm phu, không phải là đại thánh. Một vạn hai ngàn vị đại tỳ kheo đều là đại thánh. Thế nên Thế Tôn ở hội này tự nhiên vô cùng trang nghiêm thù thắng.
Theo thường lệ, mở đầu kinh văn luôn liệt kê các nhân vật đại biểu. Cổ đức gọi các vị đó là “Thượng thủ”. Quyển kinh này từ triều nhà Hán mãi đến triều nhà Tống, tổng cộng mười hai lần phiên dịch, nêu tên nhiều ít không giống nhau. Có quyển nêu hơn ba mươi vị, có quyển nêu ra mười, hai mươi vị. Vì sao phải nêu tên? Vì các vị đó là biểu pháp. Thế Tôn giảng kinh nói pháp bất cứ hội nào, họ cũng đều đến tham gia. Nhưng tại sao ở trong hội này, kết tập bộ kinh này nêu tên những vị này, kết tập bộ kinh khác lại nêu lên tên những vị khác? Chúng ta phải hiểu ý nghĩa của nó. Những người này, từ danh hiệu đức hạnh của họ đủ có thể đại biểu ý nghĩa của bộ kinh. Chúng ta chỉ cần xem danh hiệu thì liền biết được nội dung kinh, biết được trọng điểm của pháp hội nằm ở đâu. Cho nên việc nêu tên rất có ý nghĩa, không phải tùy tiện.
Cũng như hiện tại trong xã hội chúng ta mở hội nghị, chỉ cần nghe tên đại biểu đến tham dự hội nghị là những nhân vật nào, chúng ta liền biết được tính chất và nội dung của hội nghị. Phật pháp pháp hội này cũng vậy, nêu ra tên bậc thượng thủ cũng có ý tương tự. Lão cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập bộ kinh Vô Lượng Thọ, ông đã tỉnh lược bớt rất nhiều người trong số bậc thượng thủ, chỉ nêu ra những bậc quan trọng nhất đủ để biểu đạt nghĩa thú toàn kinh. Đó là thủ pháp cao minh của người hội tập, làm cho hậu học chúng ta tiết kiệm thời gian và giảm căng thẳng tinh thần.
Chúng ta nhận được tinh hoa của kinh Vô Lượng Thọ. Tuy nhiên từ mười hai loại bản dịch sau nhiều năm lưu truyền đến nay, đã thất truyền bảy loại. Hiện tại trong đại tạng kinh chỉ còn năm. Hội tập này của Hạ lão có thể nói là bổn tổng hợp của năm loại nguyên bản dịch. Chúng ta chỉ cần đọc quyển này cũng như đã đọc qua hết năm loại nguyên bản dịch kia, văn tự nghĩa lý hoàn chỉnh đầy đủ, không hề kém khuyết chút nào. Năm xưa khi Hạ lão còn ở đời được pháp sư Huệ Minh, pháp sư Từ Chu tán thán, lão cư sĩ Mai Quang Hi thì càng không cần phải nói. Trong lời tựa, bạt văn, chúng ta đều xem thấy, hội tập được quá viên mãn, thù thắng hơn rất nhiều so với ba loại hội giảo bổn ngày trước.
“Kỳ danh viết: Tôn giả Kiều Trần Như, tôn giả Xá Lợi Phất, tôn giả Đại Mục Kiền Liên, tôn giả Ca Diếp, tôn giả A Nan đẳng, nhi vi thượng thủ”
Đây đều là đại A La Hán, kinh chỉ nêu ra năm vị, thật là giản lược thấu đáo.
Vị thứ nhất, tôn giả Kiều Trần Như. Chúng ta xem nhiều kinh điển, thượng thủ đại biểu rất hiếm khi có ngài, mà thường là Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên xuất hiện quen thuộc hơn. Thực tế trong bất cứ pháp hội nào đều không thiếu vắng Kiều Trần Như nhưng chúng ta rất ít nghe đến tên của ngài, vì sao không nêu ngài lên?
Trong số đệ tử Phật, Kiều Trần Như đại biểu “chứng quả đệ nhất, khai ngộ đệ nhất”. Thích Ca Mâu Ni Phật năm xưa ở dưới cội bồ đề thị hiện thành đạo, sau khi thành Phật, đến vườn nai để độ năm vị Tỳ kheo. Đó là lần đầu tiên giảng kinh nói pháp, thính chúng chỉ có năm người. Trong năm vị Tỳ kheo này, khai ngộ và chứng quả thứ nhất là Kiều Trần Như. Kiều Trần Như có rất nhiều tích truyện, ở đây chúng tôi sẽ không giảng về tích truyện. Trọng tâm là chúng ta cần phải tin tưởng ngài đại biểu cho cái gì. Ngài đại biểu bộ kinh này là “kinh khai ngộ bậc nhất”, pháp môn này là “pháp môn chứng quả đệ nhất”. Đó mới là điểm then chốt.
Với bổn kinh, phần “Phi thị Tiểu Thừa – Đệ tứ thập tam” gần cuối kinh, đoạn đầu khuyên tín lưu thông, có câu “tâm vô hạ liệt, diệc bất cống cao, thành tựu thiện căn, tất giai tăng thượng. Đương tri thử nhân, phi thị Tiểu thừa, ư ngã pháp trung, đắc danh đệ nhất đệ tử”, chứng tỏ kinh văn trước sau tương ứng. Kiều Trần Như là khai ngộ đệ nhất, chứng quả đệ nhất, nên xếp ngài ở thứ nhất, chính là nói rõ bộ kinh này là pháp môn khiến cho tất cả chúng sanh bình đẳng thành Phật đệ nhất. Tất cả kinh Thích Ca Mâu Ni Phật nói trong suốt bốn mươi chín năm, đây chẳng phải đã nói rõ ràng Vô Lượng Thọ là đệ nhất kinh, thiên kinh vạn luận. Ngày nay chúng ta chọn được đệ nhất kinh trong tất cả kinh, nếu không phải là đại thiện căn, đại phước đức, đại nhân duyên thì làm sao có thể gặp được.
Kiều Trần Như đại biểu đệ nhất, nên xếp ngài ở thứ nhất. Phía sau cũng đều là thứ nhất, mỗi câu mỗi chữ trong kinh đều là đệ nhất, không có đệ nhị. Xá Lợi Phất đại biểu cho trí tuệ đệ nhất, Mục Kiền Liên đại biểu thần thông đệ nhất. Kiều Trần Như được xếp ở phía trước, vậy ý nghĩa biểu thị của ngài được nâng cao hơn.
Mục Kiền Liên đại biểu thần thông đệ nhất, thần thông chính là năng lực mà ngày nay chúng ta thường gọi. Thông là ý nghĩa thông đạt, thông đạt tất cả, không hề chướng ngại. Thần là thần kỳ, siêu việt thường thức, tưởng tượng của chúng ta. Họ có năng lực thù thắng, đệ nhất, cho nên trong tất cả kinh đều có hai vị tôn giả Mục Kiền Liên và Xá Lợi Phất, ý nói: tất cả các kinh Phật nói đều là trí tuệ đức năng, từ trong trí tuệ chân thật, đức năng chân thật mà lưu xuất ra, trí tuệ đệ nhất; thần thông năng lực cũng đệ nhất. Tuy nhiên tuyệt đối các kinh khác không thể so sánh với kinh Vô Lượng Thọ, vì sao? Không phải kinh nào cũng đều có thể giúp cho tất cả chúng sanh bình đẳng thành Phật. Chỉ có bộ kinh này, một pháp môn này mới có thể giúp cho tất cả chúng sanh bình đẳng thành Phật.
Phải ghi nhớ, chúng ta hãy xây dựng tín tâm, học đoạn kinh văn này chính là kiến lập tín tâm kiên định không gì bằng, tin tưởng chính mình “thị tâm thị Phật”, tin tưởng chính mình “thị tâm tác Phật”, nhất quyết sẽ thành Phật.
Tôn giả Ca Diếp đại biểu Thiền tông, sơ tổ của Thiền tông. Tôn giả A Nan đại biểu giáo hạ. Tông môn cùng giáo hạ họp lại là tổng thể Phật pháp, không hề sót lọt thứ nào. Ngoài Thiền tông ra thảy đều gọi là giáo hạ. Hai vị này đại biểu ý nghĩa rằng Tông môn và Giáo hạ cuối cùng sẽ quy về Tịnh độ, thế chẳng phải Tịnh độ thù thắng dường nào. Tuy nhiên Tông môn có thật quy về Tịnh độ hay không? Chân thật quy về.
Ví dụ rõ ràng nhất, Mã Tổ, Bá Trượng là hai vị đại sư đã xây dựng tòng lâm, lập thanh qui, đề xướng cùng tu, “Thiền môn nhật tụng”. Thanh qui mà đại sư Bá Trượng lập ra là bổn khóa tụng của Thiền tông. Khóa tối đều niệm A Di Đà Phật, buổi tụng kinh tối thì tụng kinh Di Đà, há chẳng phải quy Tịnh Độ đó sao? Không hề xem nhẹ Tịnh độ, rõ ràng là ngàn kinh vạn luận và mọi tông phái đều quy về Vô Lượng Thọ, quy về bộ kinh này, quy về thế giới Tây Phương Cực Lạc. Hiểu rõ, chúng ta cũng nên lựa chọn pháp môn Tịnh độ, chuyên tu chuyên hoằng, nhất quyết không bị các pháp môn khác làm lay động ý nguyện.
“Hựu hữu Phổ Hiền Bồ tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Di Lặc Bồ tát”
Trong pháp hội còn có chúng Bồ tát, ở trong chúng Bồ tát đề cử cho chúng ta ba vị. Thứ nhất là Bồ tát Phổ Hiền, Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, Bồ tát Di Lặc và tất cả Bồ tát trong hiền kiếp đều đến hội họp. Ý nghĩa này rất tuyệt diệu.
Bồ tát Phổ Hiền đại biểu điều gì? Đại biểu Tịnh Mật không hai. Mười tông phái của Phật pháp trong đó có Mật tông. Vào thời cận đại, Mật tông hoằng truyền rất rộng. Tổ sư của Mật tông là Bồ tát Phổ Hiền. Vị truyền thừa của Mật tông là Bồ tát Long Thọ. Sau khi Phật diệt độ sáu trăm năm, Bồ tát Long Thọ xuất hiện trên thế gian. Ngài là Bồ tát sơ địa ở Nam Thiên mở Tháp Sắt. Sau khi tháp sắt mở thì Kim Cang Tát Đỏa gọi là Kim Cang Thủ Bồ tát truyền cho ngài mật pháp này. Kim Cang Thủ Bồ tát là hóa thân của Bồ tát Phổ Hiền. Cho nên Bồ tát Phổ Hiền ở Mật tông xưng là Kim Cang Tát Đỏa. Ngài đại biểu cho Mật tông, đến cuối cùng cũng quy về Tịnh độ. Ý nghĩa này hiển thị đặc biệt rõ ràng trong phẩm thứ hai “Đức Tôn Phổ Hiền”. Trong kinh Hoa Nghiêm, “thập đại nguyện vương, đạo quy Cực Lạc”, như vậy Mật tông đâu có lý nào không quy về Tịnh độ.
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi đại biểu Thiền tông. Thiền tông do tổ sư Đạt ma truyền xuống, không phải là thiền định trong Lục độ, mà là Bát Nhã Ba La Mật trong Lục độ, gọi là “Lục Tổ Đàn Kinh”. Lục Tổ khi mở lời, luôn dạy mọi người niệm Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa, cho nên chúng ta phải hiểu Thiền tông là tu Bát Nhã Ba La Mật Đa. Bồ tát Văn Thù Sư Lợi đại biểu, đây là bổn tôn trong tông môn. Phổ Hiền là bổn tôn trong Mật tông, tất cả đều hướng về Tịnh độ.
Chúng ta tu Tịnh độ, tâm đã định thì nhìn thấy Thiền, nhìn thấy Mật rất hay. “Mật trong Mât, Thiền trong thiền”, tín tâm, nguyện tâm kiên định, không hề bị làm lay động. Chư vị Bồ tát được liệt kê ở đây đều mang nghĩa thú sâu rộng, chân thật giúp đỡ chúng ta xây dựng tín tâm, nguyện tâm không gì bằng.
Bồ tát Di Lặc đại biểu truyền thừa tương lai. Thích Ca Mâu Ni Phật là một thời đại lớn. Trong thời đại lớn này, một vạn hai ngàn năm, pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật có chánh pháp, tượng pháp, mạt pháp. Như vậy, sau một vạn hai ngàn năm, các chư Phật khác đến hoằng dương pháp môn gì, có giống như Thích Ca Mâu Ni Phật không? Không gì khác, Bồ tát Di Lặc chính là kế thừa Thích Ca Mâu Ni Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật là vị Phật thứ tư trong Hiền kiếp, Di Lặc là vị thứ năm, tiếp nối tương lai, cũng tiếp nối pháp môn này, vì đây là pháp môn đệ nhất. Mười phương ba đời tất cả chư Phật Như Lai độ chúng sanh thành Phật đạo, pháp môn đệ nhất là kinh Vô Lượng Thọ. Đối tượng kinh Vô Lượng Thọ tiếp dẫn chính là chúng sanh căn tánh chín muồi ở thế gian. Như thế nào mới gọi là chín muồi? Ngay trong một đời quyết tâm thành Phật.
Cho nên chúng ta tiếp xúc được pháp môn này, nếu không thể vãng sanh, không phải vì kinh kém khuyết mà vì chính chúng ta chưa y giáo phụng hành. Còn nếu y giáo phụng hành, nhất định đời này làm Phật, không hề khác biệt với Phật A Di Đà. Đó là sự thật, tuyệt nhiên không giả. Tất cả chư Phật Như Lai gặp được chúng sanh căn tánh chín muồi đều phải nói pháp môn này, đều khuyên bảo niệm Phật cầu sanh Tịnh độ. Do đó, pháp môn và pháp hội này thù thắng, xác thực không tiền tuyệt hậu.
“Cập Hiền kiếp trung, nhất thiết Bồ Tát, giai lai tập hội”
Tất cả Bồ tát chuyên chỉ Hiền Kiếp Thiên Phật, thời đại đó càng to lớn hơn, ngay trong một đại kiếp. Nhà Phật gọi một đại kiếp, ý nói đơn vị thời gian rất lớn. Trong đại kiếp này có một ngàn vị Phật xuất hiện ở thế giới Ta Bà. Cho nên thế giới Ta Bà chúng ta hiện tại ở trong đại thiên thế giới. Quả địa cầu này chỉ là một tinh cầu nhỏ của đại thiên thế giới. Trước kia đa phần người ta cho rằng: đại thiên thế giới mà nhà Phật nói chẳng qua là hệ ngân hà mà các nhà thiên văn học hiện tại phát hiện. Thế nhưng lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ có cách nhìn không như vậy. Phía sau chú giải kinh Vô Lượng Thọ có một đoạn văn chương của ông. Lần sau cùng ông gởi cho tôi, khi đó tôi ở Đài Loan. Ông gửi từ Bắc Kinh đến nói rằng ông hy vọng chúng tôi đem thiên văn chương này bổ sung để vào phía sau phần chú giải, bởi vì lúc giảng kinh ông đã để sót đoạn này. Ông là nhà khoa học đồng thời là giáo thọ khoa học, dạy vô tuyến điện ở trường đại học Thiên Tân.
Hiện tại chúng ta gọi là hệ ngân hà, nhưng theo cách nhìn của ông, trên thực tế chỉ là một đơn vị thế giới mà trong Phật pháp thường gọi. Kinh Phật nói đơn vị thế giới lấy núi Tu Di làm trung tâm, thái dương xoay vòng theo núi Tu Di. Rốt cuộc núi Tu Di là gì? Từ xưa đến giờ chưa có người nào có thể giải thích rõ ràng. Hoàng lão cư sĩ nói: “Núi Tu Di có thể là lỗ đen mà thiên văn đã phát hiện”. Lỗ đen đó ngày nay chúng ta gọi là trung tâm của vũ trụ, trung tâm của hệ ngân hà. Thái dương đích thực đang xoay quanh điểm này.
Giả như lời nói của ông có thể chứng thực, vậy một đại thiên thế giới có bao nhiêu hệ ngân hà? Mười vạn ức hệ ngân hà. Một đại thiên thế giới là khu vực giáo hóa của một vị Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật hoàn toàn không diệt độ. Ngài ở thế giới này thị hiện cho chúng ta thấy ngài đã diệt độ, nhưng có thể ngài lại thị hiện ở một tinh cầu khác. Phật xem nơi nào duyên đã chín muồi thì liền hiện thân ở nơi đó. Phẩm Phổ Môn nói “Thiên xứ sở cầu thiên xứ ứng”, kinh Lăng Nghiêm cũng nói tùy loại hóa thân, “tùy chúng sanh tâm ứng sở tri lượng”. Phật không có thân tướng nhất định, nơi nào có duyên thì hiện thân đến nơi đó, nơi nào không còn duyên nữa, thân cũng sẽ không còn. Cho nên không có sanh tử, tùy loại hóa thân, đó là sự thật.
Thế nên Hiền kiếp, trong thời đại lớn này, có một ngàn vị Phật ở thế giới Ta Bà, chính là một đại thiên thế giới. Chúng ta lấy lời của Hoàng lão cư sĩ thì mười vạn ức hệ ngân hà, phạm vi lớn đến vậy, thị hiện một ngàn vị Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật là vị thứ tư, Phật Di Lặc là vị thứ năm, sau đó còn 995 vị Phật. Hiện tại trong Hiền kiếp, địa vị các ngài là Bồ tát, nhưng tương lai liên tục thảy đều thay nhau thành Phật. Ý này rõ ràng cho chúng ta biết, vạn Phật không vị Phật nào không nói kinh này, không vị Phật nào không tuyên dương pháp môn này, không vị Phật nào không khuyên tất cả chúng sanh niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
Chúng ta phải chân thật nắm được, hiện tại nhất định sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc. Tương lai ở thế giới Tây Phương Cực Lạc, chúng ta sẽ trở thành nguyên lão, tư cách tiền bối. Kinh nói rõ “A Di Đà Phật thành Phật đến nay mới có mười kiếp”, mười kiếp ở trong thời không rất ngắn ngủi. Chúng ta sớm đến thế giới Cực Lạc, sau này vạn Phật ra đời đều là hậu bối của chúng ta. Cho nên hiện tại nếu vãng sanh, tương lai đều là huynh trưởng của họ. Do đó hãy nhanh chân hơn, không nên tiếp tục luân hồi, vừa luân hồi vừa đọa lạc, trong khi người sau thành Phật, thành đại Bồ Tát, thì chúng ta lại trở nên lạc hậu quá xa. Đó là việc không ai muốn. Muốn vậy, thì phải chăm chỉ nỗ lực học tập tinh tấn.
Tóm lại, quả thực mười phương tất cả chư Phật Như Lai, không chỉ là Hiền kiếp thiên Phật, không vị nào không lấy kinh này, lấy pháp môn niệm Phật làm đệ nhất. Đó là nội dung nên học tập trong phẩm thứ nhất.
(Còn tiếp ...)
KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC
Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG
Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ
Biên tập: PT. Giác Minh Duyên
Comments
Post a Comment