Nâng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo Basel 3 - lộ trình củng cố bức tường an ninh tài chính – ngân hàng (Số 22/2010)

PGS., TS. Nguyễn Văn Hiệu

Ngày 12/9/2010, Ủy ban Basel đã chính thức công bố bộ tiêu chuẩn an toàn vốn tối thiểu áp dụng cho các ngân hàng thương mại. Bộ tiêu chuẩn này được coi là khá ngặt nghèo đối với hệ thống ngân hàng trên thế giới nói chung và đối với một số nước mới tham gia vào WTO nói riêng. Tuy nhiên, đến tận năm 2013, bộ tiêu chí mới này mới bắt đầu có hiệu lực theo một lộ trình tăng dần mức độ tuân thủ và sẽ được thực thi đầy đủ vào ngày 1/1/2019. Thời gian đáp ứng các tiêu chuẩn của Basel 3 còn khá dài nhưng không vì thế mà không có những nỗi lo.

Từ Basel 1 đến Basel 2: những bước tiến quan trọng trong phòng ngừa rủi ro thông qua quy định tỷ lệ an toàn vốn
Từ Basel 1 đến Basel 3 là cả một hành trình dài củng cố và hoàn thiện khả năng ứng phó với rủi ro của hệ thống ngân hàng dựa vào tiêu chuẩn tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu trước những diễn biến ngày càng phức tạp của môi trường tài chính - ngân hàng toàn cầu.
Năm 1974, Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng được thành lập nhằm tìm cách ngăn chặn sự sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng vào thập kỷ 80. Mặc dù vậy, mãi đến năm 1988, Uỷ ban Basel mới giới thiệu hệ thống đo lường vốn mà thường được đề cập là hiệp ước Basel 1. Hệ thống này cung cấp khung đo lường rủi ro tín dụng với tiêu chuẩn an toàn vốn tối thiểu 8%. Basel 1 không chỉ được phổ biến và bắt buộc áp dụng trong các nước thành viên của G10 mà còn được rất nhiều nước khác trên thế giới tự nguyện tham gia. Nội dung cốt lõi của Basel 1 là yêu cầu các ngân hàng phải có tỷ lệ vốn bắt buộc tính trên tổng tài sản điều chỉnh theo hệ số rủi ro (RWA) ở mức an toàn là 8%. Theo đó, ngân hàng có mức vốn tốt nhất là ngân hàng có
CAR > 10%, có mức vốn thích hợp khi CAR > 8%, thiếu vốn khi CAR < 8%, thiếu vốn rõ rệt khi CAR < 6% và thiếu vốn trầm trọng khi CAR < 2%.
Một thành tựu khác của Basel 1 là đã đưa ra được định nghĩa mang tính quốc tế về các loại vốn của ngân hàng. Theo đó, vốn của các ngân hàng được chia thành 3 loại:
- Vốn cấp 1: là vốn sẵn có chắc chắn và các khoản dự phòng được công bố gồm: vốn chủ sở hữu vĩnh viễn (vốn điều lệ hoặc vốn cổ phần phổ thông), vốn dự trữ đã công bố (lợi nhuận không chia); lợi ích thiểu số (minorrity interest) tại các công ty con có hợp nhất báo cáo tài chính; lợi thế kinh doanh (Goodwill).
- Vốn cấp 2: là nguồn vốn bổ sung có độ tin cậy thấp hơn như: vốn tăng do đánh giá lại tài sản, các khoản dự phòng tổn thất chung, vốn bổ sung từ các công cụ nợ hỗn hợp (trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi và một số công cụ nợ thứ cấp), đầu tư tài chính vào các công ty con và các tổ chức tài chính khác.
- Vốn cấp 3: là các khoản vay ngắn hạn.
Rõ ràng, khả năng chủ động trong việc sử dụng các nguồn vốn nói trên để ứng phó với rủi ro giảm dần từ vốn cấp 1 đến vốn cấp 3, trong đó, độ tin cậy của vốn cấp 3 với việc ứng phó rủi ro là thấp nhất. Chính vì vậy, Basel 1 đặt ra tiêu chuẩn quy định:

Vốn cấp 1 ≥  Vốn cấp 2 + Vốn cấp 3

Cũng vì vốn cấp 3 là vốn có độ tin cậy thấp nhất nên khi xác định tỷ lệ an toàn vốn (CAR) thường chỉ xét đến vốn cấp 1 và vốn cấp 2.
Về hệ số rủi ro của tài sản, Basel 1 đưa ra 4 mức rủi ro cho các loại tài sản là 0%, 20%, 50% và 100% tương ứng với các khoản cho vay chính phủ, ngân hàng hay doanh nghiệp. Với quy định như vậy, có thể thấy Basel 1 đo lường rủi ro một cách cào bằng và khá sơ sài vì tỷ lệ rủi ro này không phụ thuộc vào quy mô vốn vay, hệ số tín nhiệm của khách hàng vay... Hơn nữa, Basel 1 chỉ tập trung vào một giải pháp quản lý rủi ro duy nhất là “yêu cầu vốn tối thiểu” mà không chú ý đến các biện pháp quản lý rủi ro khác, đặc biệt là chưa đề cập gì đến rủi ro tác nghiệp (rủi ro hoạt động).
Vì những lý do này, quý 4/2003, phiên bản mới của hiệp ước Basel 1 đã được hoàn thiện (gọi là Basel 2) có hiệu lực từ tháng 1/2007 và kết thúc thời gian chuyển đổi đến năm 2010. Ngoài các mục tiêu của Basel 1, Basel 2 nhấn mạnh hơn vào việc đẩy mạnh thực thi các thông lệ được thiết lập nghiêm ngặt hơn trong lĩnh vực quản lý rủi ro, đặc biệt hướng nhiều hơn vào việc giám sát, kiểm soát và công bố thông tin, các số liệu nội bộ.
Basel 2 dựa trên 3 trụ cột chính, trong đó, trụ cột thứ nhất liên quan đến việc duy trì vốn bắt buộc. Theo trụ cột này, tỷ lệ vốn bắt buộc tối thiểu (CAR) vẫn là 8%. Các định nghĩa về vốn cấp 1, vốn cấp 2 và vốn cấp 3 không có gì thay đổi. Tuy nhiên, việc xác định hệ số rủi ro của tài sản có sự thay đổi: thay vì quy định hệ số rủi ro từ 0% - 100% và ưu đãi hơn với các nước thuộc OECD, Basel 2 quy định hệ số rủi ro từ 0% - 150% và không còn đặc quyền nào với các nước OECD. Bên cạnh đó, hệ số rủi ro không áp dụng cứng nhắc như quy định của Basel 1 mà được chi tiết theo độ nhạy cảm rủi ro trong mỗi loại và phụ thuộc vào hệ số tín nhiệm của các đối tượng. Ngoài ra, theo Basel 2, mẫu số của công thức tính hệ số an toàn vốn CAR sẽ bao gồm 2 phần: tổng tài sản đã điều chỉnh theo hệ số rủi ro tín dụng cộng với 12,5 lần tổng vốn quy định cho dự phòng rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động. Chẳng hạn, tổng tài sản đã điều chỉnh theo hệ số rủi ro tín dụng của một ngân hàng là 1000 USD, vốn quy định phòng ngừa rủi ro thị trường là 10 USD, vốn quy định tối thiểu để phòng ngừa rủi ro tác nghiệp là 20 USD thì mẫu số để xác định tỷ lệ vốn tối thiểu sẽ là: 1000 + (10 + 20) x 12,5  =  1375 USD. Điều đó có nghĩa là ngân hàng đó phải cần nhiều vốn tự có hơn để thoả mãn tỷ lệ tối thiểu 8%.
Trụ cột thứ 2 và thứ 3 liên quan đến quy trình đánh giá hoạt động thanh tra, giám sát và công bố thông tin. Tuy không trực tiếp tác động đến việc tuân thủ tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu song những quy định này đòi hỏi sự công khai, minh bạch, nhất quán và phù hợp với thông lệ quốc tế. Vì vậy, các quy định này có ảnh hưởng gián tiếp đến việc phân loại tài sản, phân loại vốn, tỷ lệ rủi ro và đặc biệt là các chuẩn mực kế toán liên quan đến các khoản mục vốn và tài sản trên bảng cân đối cũng như các tài khoản ngoại bảng. Theo đó, các quy định này trước hết sẽ ảnh hưởng đến việc xác định các khoản mục và cách tính hệ số an toàn vốn của các ngân hàng thuộc các quốc gia là thành viên của WTO. Vì thế, việc đáp ứng các tiêu chuẩn của Basel 2 về an toàn vốn tối thiểu cũng hoàn toàn không đơn giản.

Basel 3 củng cố thêm bức tường thành an ninh tài chính - ngân hàng
Trước những diễn biến phức tạp của khủng hoảng tài chính toàn cầu và hệ lụy lâu dài của chúng đối với hệ thống tài chính - ngân hàng toàn thế giới, Uỷ ban Basel một lần nữa lại dự thảo và thông qua phiên bản thứ 3 (Basel 3) về các tiêu chuẩn an toàn vốn tối thiểu. Nội dung bao trùm là:
-  Nâng tỷ lệ vốn chủ sở hữu tối thiểu (cổ phần phổ thông) từ 2% lên 4,5%.
- Nâng tỷ lệ vốn cấp 1 tối thiểu từ 4% lên 6%.
- Bổ sung phần vốn đệm dự phòng tài chính đảm bảo bằng vốn chủ sở hữu 2,5%.
- Tùy theo bối cảnh của mỗi quốc gia, một tỷ lệ vốn đệm phòng ngừa sự suy giảm theo chu kỳ kinh tế có thể được thiết lập với tỷ lệ từ 0 - 2,5% và phải được đảm bảo bằng vốn chủ sở hữu phổ thông (common equity). Phần vốn dự phòng này chỉ đòi hỏi trong trường hợp có sự tăng trưởng tín dụng nóng, nguy cơ dẫn đến rủi ro cao trong hoạt động tín dụng một cách có hệ thống.
Ngoài ra, Basel 3 còn đưa ra các biện pháp giám sát chặt chẽ các ngân hàng và nhằm ngăn chặn việc lạm dụng chia thưởng, hoặc chia cổ tức cao trong bối cảnh tình trạng tài chính và tỷ lệ an toàn vốn không đảm bảo. Basel 3 cũng đồng thời rà soát lại các tiêu chuẩn (định nghĩa) vốn cấp 1, vốn cấp 2 và sẽ loại bỏ các khoản vốn không đủ tiêu chuẩn khi giám sát chỉ tiêu an toàn vốn tối thiểu.
Như vậy, có thể thấy rằng, loại trừ khoản vốn đệm phòng ngừa rủi ro tài chính 2,5%, tiêu chuẩn an toàn vốn tối thiểu không thay đổi (vẫn là 8%). Tuy nhiên, kết cấu của các loại vốn đã có sự thay đổi đáng kể theo hướng tăng tỷ trọng vốn cấp 1, đồng thời tăng tỷ trọng vốn chủ sở hữu phổ thông trong vốn cấp 1. Nếu tính đầy đủ cả 2 khoản vốn đệm dự phòng suy giảm tài chính và dự phòng chống hiệu ứng chu kỳ kinh tế thì tỷ lệ vốn chủ sở hữu được điều chỉnh tăng từ 2% (Basel 2) tăng lên thành 9,5% (4,5% + 2,5% + 2,5%) ở Basel 3. Nếu loại trừ phần vốn đệm chống chu kỳ kinh tế 2,5% (không bắt buộc trong điều kiện bình thường) thì mức tối thiểu vốn chủ cũng phải đạt mức 7%. Bên cạnh đó, có thể một số khoản trước đây được tính vào vốn chủ sở hữu nay phải bóc tách ra vì không đủ điều kiện coi là vốn chủ sở hữu. Chẳng hạn, khoản vốn vượt quá giới hạn 15% đầu tư vào các tổ chức tài chính khác, khoản vốn có nguồn gốc từ số thuế thu nhập lưu kỳ (hoãn lại)... Vì thế, yêu cầu nâng cao tỷ lệ vốn chủ sở hữu là bài toán không đơn giản đối với nhiều ngân hàng xét trong bối cảnh kinh tế xã hội đang có nhiều biến động.
Các tiêu chuẩn của Basel 3 không có hiệu lực ngay lập tức. Chúng bắt đầu có hiệu lực từ năm 2013, được thực hiện theo một lộ trình đến hết năm 2018 và sẽ thực hiện đầy đủ vào ngày 1/1/2019. Bảng sau sẽ cho thấy lộ trình cụ thể của việc thực thi hiệp ước Basel 3: (xem bảng 1).



Chỉ tiêu
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
Tỷ lệ vốn chủ sở hữu tối thiểu
3,5%
4.0%
4,5%
4,5%
4,5%
4,5%
4,5%
Vốn đệm dự phòng



0,625%
1.25%
1,875%
2,5%
Vốn chủ sở hữu tối thiểu cộng vốn đệm dự phòng
3,5%
4%
4,5%
5,125%
5,76%
6,375%
7%
Loại trừ khỏi vốn chủ sở hữu các khoản vốn không đủ tiêu chuẩn

20%
40%
60%
80%
100%
 100%
Tỷ lệ vốn cấp 1 tối thiểu
4,5%
5,5%
6,0%
6,0%
6,0%
6,0%
6,0%
Tỷ lệ tổng vốn tối thiểu
8%
8%
8%
8%
8%
8%
8%
Tổng vốn tối thiểu cộng vốn đệm dự phòng bắt buộc
8%
8%
8%
8,625
9,125
9,875
10,5
Loại trừ khỏi vốn cấp 1 và cấp 2 các khoản không đủ tiêu chuẩn
Thực hiện theo lộ trình 10 năm bắt đầu từ năm 2013
Vốn dự phòng chống hiệu ứng chu kỳ
Tuỳ theo điều kiện của quốc gia: mức từ 0% - 2,5%
              (Nguồn: http://www.basel-iii-accord.com/)

Khả năng tuân thủ Basel 3 của các ngân hàng Việt Nam
Theo đánh giá từ các nguồn số liệu công bố, hầu hết các ngân hàng thương mại nhà nước và các ngân hàng thương mại nhà nước mới cổ phần hoá (Vietcombank, Vietinbank, sắp tới là BIDV) đều đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% theo Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN và các quyết định bổ sung. Tuy nhiên, bắt đầu từ ngày 1/10/2010, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo quy định của Thông tư 13/TT-NHNN phải là 9%. Các ngân hàng sẽ phải có một sự điều chỉnh nhẹ để đạt được chỉ tiêu an toàn vốn tối thiểu theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Đạt được tỷ lệ này, các ngân hàng thương mại ở nước ta sẽ có điều kiện thuận lợi thoả mãn tiêu chuẩn an toàn vốn tối thiểu của Basel 3 đến năm 2017 và chỉ phải điều chỉnh gia tăng tỷ lệ này vào các năm tiếp theo từ 2018 trở đi để đạt được tỷ lệ vốn tối thiểu 10,5% kể cả phần vốn đệm dự phòng tài chính. Nếu chỉ có vậy thì không có gì đáng lo ngại vì vốn của các ngân hàng thương mại ở nước ta hiện nay hầu hết là vốn cấp 1 và là vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước và số liệu sẵn có từ một số ngân hàng, vấn đề nằm ở chỗ, tỷ lệ an toàn vốn nói trên là tỷ lệ tính toán theo chuẩn mực kế toán Việt Nam. Nếu tính theo chuẩn mực kế toán quốc tế thì tỷ lệ an toàn vốn CAR của các ngân hàng thương mại Việt Nam có một sự sai lệch khá xa.
Ví dụ sau đây sẽ cho thấy rõ điều này: (xem bảng 2).
Bảng số 2: Chỉ số CAR của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam qua các năm 2005 – 2009

Chỉ tiêu
2005
2006
2007
2008
2009
Chỉ số CAR (%) theo VAS
6,86%
9,1%
-
8,94%
9,53%
Chỉ số CAR (%) theo IFRS
3,36%
5,9%
6,7%
6,5%
7,55%
Nguồn: BIDV- Trích lại từ bài “Giám sát ngân hàng theo Basel 2 và viêc tuân thủ của Việt nam (Tác giả: Hạ Thị Thiều Dao).

Số liệu của các ngân hàng khác nhau có thể khác nhau, nhưng có thể thấy một điểm  chung là chuẩn mực kế toán Việt Nam có nhiều điểm khác biệt so với chuẩn mực kế toán quốc tế. Có một thực tế đã được bàn luận nhiều là ngay cả chuẩn mực kế toán Việt Nam cũng chưa được thực hiện một cách đầy đủ ở các doanh nghiệp. Vì vậy, thiết nghĩ cần có một sự khảo sát toàn diện về khả năng tuân thủ các tiêu chuẩn của Basel 2, cao hơn nữa là Basel 3 nói chung và khả năng tuân thủ tiêu chuẩn an toàn vốn nói riêng theo tiêu chuẩn kế toán quốc tế. Sau nữa, cần có một cuộc tổng rà soát tiêu chuẩn đáp ứng vốn chủ sở hữu phổ thông theo thông lệ quốc tế trên cơ sở loại trừ các khoản vốn không đủ tiêu chuẩn và có biện pháp xử lý theo lộ trình của Basel 3 để đảm bảo sự phù hợp. Bên cạnh đó, phải tính đến khả năng có một tỷ lệ vốn dự phòng chống hiệu ứng chu kỳ kinh tế thích hợp với điều kiện của nền kinh tế nước ta nhằm chủ động đối phó với những diễn biến xấu từ nội tại nền kinh tế và từ những biến động ngoại lai. Có như vậy, mới đảm bảo cho sự phát triển an toàn và vững chắc của hệ thống tài chính - ngân hàng ở nước ta, đồng thời, hướng đến việc tuân thủ các chuẩn mực của Basel 3 trên cơ sở chủ động hội nhập và hợp tác quốc tế.



[*] Trường ĐT&PTNNL Vietinbank

Comments

Popular Posts